Nguồn gốc hai dòng thiền An Nam tông tại Thái Lan (1)
Từ ngày 25 đến 30-3 vừa qua, phái đoàn An Nam tông (Thái Lan) do Trưởng lão Tăng trưởng Phra Mahakhananamdhampaññāthiwatra dẫn đầu đã đến thăm VN, theo lời mời của Bộ Ngoại giao. Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQVN, TƯGH tiếp đón thân tình tại Hà Nội. Cùng đi có HT.TS Phra Brahmapundit, Viện trưởng Đại học Mahachulalongkorn, Chủ tịch Ủy ban Quốc tế Ngày Vesak của Liên Hiệp Quốc, đại diện Giáo hội Tăng-già Thái Lan. GN giới thiệu cùng độc giả bài nghiên cứu có thể nói là công phu nhất từ trước đến nay, về An Nam tông tại Thái Lan, được gởi về tòa soạn từ Bangkok.
1. Lời mở đầu
Thời gian qua, do những tương tác ngoại giao, kinh tế, xã hội cùng với những đóng góp của các nhà nghiên cứu khoa học2, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và Hội Việt kiều Bangkok, v.v… mà Tăng đoàn Việt Nam tại Thái Lan3 (泰國越僧團) hay tên chữ là “An Nam tông” (được dịch sát nghĩa theo tiếng Thái “Annamnikai, อนัมนิกาย” và tiếng Pāli “Annamnikāya”) đã được biết đến một cách phổ biến. Ở đây xin dùng chữ “An Nam tông” vì đã phổ biến hơn so với tên chữ Hán cổ là “Thái quốc, Việt Tăng đoàn”.
Từ những ngôi chùa đầu tiên, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, An Nam tông đã củng cố và hình thành nên một trong hai tông phái Đại thừa chánh tông được triều đình và Giáo hội Phật giáo Thái Lan công nhận. Tính tới thời điểm của nghiên cứu này (2017), An Nam tông đã có lịch sử hình thành 230 năm (nếu ta chỉ tính từ ngôi chùa đầu tiên tên Quảng Phước (wat Annamnikayaram) được xây năm 1787) với hệ thống 21 ngôi chùa đã có tên trong danh bộ tự viện, và 4 ngôi đang trong tiến trình xin chứng nhận trở thành chùa hay wat trong tiếng Thái4 thông qua hai dòng thiền chính tông là Lâm Tế và Tào Động, một cơ sở đại học đào tạo hệ cử nhân mang tên Đại học Đại Trí (Mahāpanya University) trực thuộc Đại học Mahachulalongkorn tại thành phố Hatyai, một trường trung học phổ thông dành riêng cho các chú Sa-di An Nam tông tên Việt là Tăng-già Học viện đặt tại chùa Phổ Phước (wat Kusolsamakorn) thuộc khu Chinatown và một đài phát thanh để thông tin hoạt động Phật sự tại chùa Hưng Thạnh (wat Dhamma Panyara Bang Muang).
Với một khoảng thời gian lịch sử hơn 200 năm như thế, chúng tôi không thể trình bày đầy đủ chỉ trong một bài viết ngắn. Hơn thế, chủ đề “An Nam tông Thái Lan” đã được viết chi tiết cụ thể, ít nhất là trong 2 luận án thạc sĩ được trình tại Đại học Chulalongkorn và Đại học Mahachulalongkorn, Bangkok. Do vậy, người viết chỉ tập trung nghiên cứu nguồn gốc hình thành của hai dòng thiền An Nam tông với phương pháp cổ sử thông qua các tư liệu, bi ký, bài vị tại các tổ đường của các ngôi chùa cổ, và thừa kế các nghiên cứu trước đây nhằm bổ sung những quan điểm còn bỏ ngỏ.
2. Thời điểm và lý do truyền thừa
Có thể nói rằng, An Nam tông là một thực thể sinh động chứng minh sự tồn tại của Phật giáo Việt Nam truyền ra nước ngoài dưới hình thức Tăng đoàn vẫn còn tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ cho tới hôm nay.
Theo dòng lịch sử, vào thời kỳ rất sớm của nền Phật giáo Việt Nam, cụ thể là vào thế kỷ thứ III, thầy Khương Tăng Hội đã mang Phật giáo Việt truyền vào xứ Đông Ngô thuộc Giang Nam của Ngô Quyền (229-252 TL) thời Tam Quốc nước Trung Hoa5. Dấu tích còn lại là ngôi chùa Kiến Sơ và Kinh tạng mà Ngài đã dịch gồm Lục độ tập kinh, An ban thủ ý... Tiếp bước thầy Tăng Hội, có thầy Đại Đăng sang Ấn Độ du học rồi về Trung Hoa tham gia phiên dịch Kinh tạng với thầy Huyền Tráng nhưng không thấy mở tông tu tập. Trong khi đó, Phật giáo từ Ấn Độ (Tây Thiên), Trung Quốc (Đông Độ) lần lượt truyền sang Việt Nam hình thành nên các dòng thiền tồn tại và phát triển cho đến hôm nay.
Mãi đến thời nội chiến của chúa Nguyễn Phúc Ánh (vua Gia Long sau này) với triều Tây Sơn, Phật giáo Việt Nam mới được truyền sang Xiêm-la quốc (Siam hay Thái Lan ngày nay) mà công lao to lớn là do những tôn thất nhà Nguyễn (một trong số ấy là Tôn Thất Xuân), tướng lãnh (gồm cả Mạc Tử Dung, Mạc Đăng Doanh6) và gia quyến của họ.
Một điều đặc biệt là bảy ngôi chùa mang tên “Phước” (Phúc) - tên chữ của dòng họ chúa Nguyễn (Phước) - tại Thái Lan, gồm: chùa Quảng Phước (xây năm 1787), Phổ Phước, Cảnh Phước, Biểu Phước (đã chuyển thành chùa Hoa tông), Hưng Phước, Phước Điền, Phước Thọ với chữ đệm là Sắc tứ Trấn quốc (Cảnh Phước tự), sắc tứ Hưng Quốc (Khánh Vân) giúp ta có thể liên hệ đến những mục đích khác nữa, đó là: - 1. Góp phần cầu nguyện cho công nghiệp thống nhất giang sơn của vị chúa (Nguyễn Phúc Ánh) mà họ tôn thờ được sớm thành công (các ngôi chùa đầu tiên); 2. Sau khi nước nhà độc lập thống nhất sắc phong cho xây dựng chùa chiền làm cho quốc gia vững bền (trấn quốc) và hưng thịnh (hưng quốc) nhằm bảo đảm cho nhà Nguyễn (Phúc) mãi mãi dài lâu và rộng khắp (Phổ Phước) (các ngôi chùa xây sau).
Riêng chữ “Quảng Phước” rất hay vì chữ “Quảng” vừa mang ý nghĩa là đất kinh kỳ vừa có nghĩa là “dài rộng thêm ra” giống như chữ “Quảng Nam - mở rộng về phía Nam” và chữ Phước là chữ lót của hoàng tộc nhà Nguyễn. Một hiện tượng tương tự là tại Bà Rịa, Vũng Tàu vào thời vua Gia Long (1802-1820) xuất hiện các tên gọi mang chữ Phước: làng cá Phước Hải, làng Phước Thắng, đàn Kỳ Phong thuộc xã Phước Tỉnh tôn thờ các vị hải thần. Tương tự, tại Lệ Thủy, Quảng Bình, năm 1821, vua Minh Mạng (Nguyễn Phúc Đảm) trong chuyến ngự giá Bắc tuần, ghé thăm chùa Kính Thiên tự, đã đổi chùa này thành Hoằng Phúc tự7. Ở đây ta có thể thấy rằng chữ “Phúc” rất được ưa dùng trong các triều đại nhà Nguyễn vì nó không chỉ là tên chữ đệm của hoàng tộc này mà còn có một ý nghĩa chính trị nhất định.
Riêng vấn đề vua Gia Long với Phật giáo An Nam tông Thái Lan vẫn còn là vấn đề cần nghiên cứu thêm vì chúa Nguyễn Ánh chỉ ở Xiêm-la 4 năm (1783 đến 1787) sau đó chúa bí mật trở về Việt Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến thống nhất đất nước, nên công lao xây dựng chùa chiền bên này hẳn là do kiều bào và các tôn thất nhà Nguyễn, có chăng sau khi đã đăng cơ, ngài cho sắc tứ tên chữ và hỗ trợ tinh thần và vật chất (có thể) cho các ngôi chùa xây dựng sau này. Điều này cũng cùng quan điểm với Peter A. Pool “ngôi chùa đầu tiên của người Việt ở Thái Lan là chùa Quảng Phước (wat Annamnikairam) do hai vị tướng của Nguyễn Ánh là Thong Dung Gian và Hồ Dương Đắc cùng với số người Việt đã quyên góp và xây dựng nên vào năm 1787 tại khu vực Bang Po”8.
Tóm lại, năm 1787 là mốc lịch sử mở tông An Nam tại Thái Lan với chứng tích còn đó là ngôi chùa Quảng Phước và lý do truyền thừa là do những tôn thất, tướng lãnh nhà Nguyễn và đoàn tùy tùng sau khi họ quyết định ở lại Xiêm-la làm ăn sinh sống đã xây dựng chùa chiền để thờ cúng tổ tiên và gìn giữ tôn giáo gốc của họ. Ngoài ra, xây chùa tạo phúc, góp phần cầu nguyện cho sự hưng thịnh của nhà Nguyễn cũng là một lý do quan trọng trong việc hình thành nên hệ thống tông An Nam tại Thái Lan.
Comments[ 0 ]
Post a Comment