Vấn đề danh xưng An Nam Tông
3. Vấn đề danh xưng
Trước hết, phải nên minh bạch rằng “An Nam tông” là “Phật giáo Đại thừa Việt tông tại Thái Lan” chứ không hề liên hệ đến “Phật giáo Nam tông/truyền Việt Nam” dù là “Nam tông Kinh” hay “Nam tông Khmer”. Tên gọi chữ Hán bản cổ ghi là “Thái quốc Việt Tăng đoàn” (泰國越僧團) hay “Tăng đoàn Việt Nam tại Thái Lan” thì đã rõ. Còn tên tiếng Thái “Annamnikai” (อนัมนิกาย) thì sao? Tại sao không phải là “Vietnamnikai” (Việt Nam tông)? An Nam là An Nam nào - An Nam thời Pháp thuộc chỉ các tỉnh miền Trung sau khi Pháp phân chia Việt Nam thành Tonkin (Hà Nội) An Nam (miền Trung) và Cochinchina (Saigon) hay An Nam của “An Nam đô hộ phủ” mà thời Đường (673-757 và 768-866) người Trung Quốc ám chỉ biên cương phía Nam đã bình định, đã an bài.
Thật ra hai chữ “An Nam” xuất hiện rất sớm, chí ít là vào thời Tam Quốc. Chính sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, ở mục Ngô Chí, truyện Lục Khải có đề cập đến Lục Dận, em của Khải và là cháu của Lục Tốn, qua Giao Châu dẹp loạn được phong là An Nam hiệu úy rồi An Nam tướng quân: “Năm Xích Ô thứ mười một, người rợ ở quận Giao Chỉ, Cửu Chân (tức Triệu Ẩu) đánh diệt thành ấp, Giao Châu nhiễu động. Lấy Dận làm Giao Châu Thứ sử, An Nam hiệu úy. Dận vào miền Nam, dùng ấn tín để dụ, ưa việc chiêu nạp, hơn ba nghìn người phe đảng của bọn cừ súy Hoàng Ngô ở huyện Cao Lương đều ra hàng. Dẫn quân xuống phía Nam, tuyên bố rất thật, đem tiền của để trao tặng. Hơn trăm tướng giặc, năm vạn người dân ở nơi sâu xa khó quản, chẳng ai không cúi đầu, do đó Giao Châu yên bình. Liền bái chức An Nam tướng quân …”.
Tuy nhiên, căn cứ vào thời điểm truyền thừa “Do tình hình chiến tranh trong nước, một số gia nhân của nhà Nguyễn đứng đầu là Tôn Thất Xuân đã chạy trốn xuống Hà Tiên. Năm 1778, vua Taksin của Siam cho quân sang đánh Hà Tiên và bắt tất cả đưa về Băng Cốc”9 thì chúng ta có thể thấy rằng An Nam là chỉ chung cho toàn cõi Việt Nam chứ không thể là An Nam chỉ riêng phần dải đất miền Trung được. Vì rằng thời ấy, Pháp chưa đô hộ Việt Nam10 thì lấy gì mà phân chia ranh giới và như thế làm gì có phần đất An Nam dành riêng cho miền Trung. Như vậy, An Nam tông là Việt Nam tông hay Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam nói chung và so với tên chữ Hán “Việt Tăng đoàn” là hoàn toàn thỏa đáng.
Hơn thế nữa, theo niên biểu Việt Nam thì quốc hiệu “Đại Việt” được dùng xuyên suốt từ thời kỳ Lý Thánh Tông lên ngôi năm 1054 đến giai đoạn đầu thời nhà Nguyễn trước năm 1804, nhưng lịch sử bang giao với ngoại quốc, cái tên “An Nam quốc” được dùng thay thế. Một ví dụ cụ thể là vào thời Trần Thái Tông, quốc hiệu Đại Việt nhưng khi viết thư ngoại giao và dâng biểu thì vẫn viết tên nước là An Nam quốc: “Tống Bảo Hựu, An Nam Trần, thọ vị vu tử, thượng biểu”11 (năm Bảo Hựu thứ 6 (1258) của nhà Tống, vua Trần (Trần Thái Tông) nước An Nam nhường ngôi cho con (Trần Thánh Tông), dâng biểu). Hoàng đế Quang Trung làm hịch trước lúc xuất trận Ngọc Hồi Đống Đa đã viết: “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Người Trung Quốc có thói quen gọi nước ta là An Nam quốc khi các vị vua Việt nhận thụ phong của Trung Quốc với hiệu là An Nam quốc vương và cách dùng này ảnh hưởng đến cách gọi của người nước ngoài khi nói về Việt Nam, ít nhất là tới trước năm 1945 (các từ điển tiếng Việt-Bồ-La xuất bản năm 1651 (Dictionarium Annnamiticum Lusitanum et Latinum) thời sơ kỳ của chữ Quốc ngữ đều dùng tên Annamiticum, nguyên bản gốc viết sai chính tả chữ Annnam). Cũng vì lý do đó mà các vua Thái đều thừa nhận Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ là An Nam tông và cho tới khi vua Rama V, Chulalongkorn chứng nhận Đại thừa chánh tông vào năm 1899 vẫn giữ tên cũ theo tiếng Thái là Annamnikai (อนัมนิกาย) và dịch sang tiếng Việt là An Nam tông, dù rằng vào năm 1804 quốc hiệu của nước ta đã đổi là Việt Nam.
Tuy nhiên, Annamnikai lại là tên gọi mang tính học thuật, còn thực tế đời sống xã hội thì người Thái gọi An Nam tông là Yuan (duân) ní-kai, chùa Việt thì gọi là wat Yuan hay wat Viết Nam (có dấu sắc), thầy Việt gọi là phra Yuan (Phá Duân). Chữ Yuan có thể bắt nguồn từ chữ yavana của tiếng Phạn (Sanskrit), từ yavana thành yauana (vì v và u có thể hoán đổi theo luật sandhi) rồi do cách đọc bỏ nguyên âm cuối [a] trong tiếng Thái thành ra yauan cuối cùng viết gọn thành Yuan. Chữ yavana có nghĩa là người ngoại quốc hay người đến từ miền biên viễn. Trong cuộc chiến biên giới Tây Nam với chế độ Pol Pot, chữ cáp-yuan (thường được đọc là “cáp duồn”, cắt cổ người Việt) được dùng đến làm cho một bộ phận không nhỏ người Việt không thích mình bị gọi là Yuan, và tương tự người Campuchia cũng không thích bị gọi là Miên vậy. Tuy nhiên, ở Thái Lan, chữ Yuan chỉ thuần túy là dùng cho người Việt cũng như chữ Xiêm (Siam, xà-dảm) là chỉ cho người Thái, không có gì là miệt thị cả. Ngoài ra, vùng Đông bắc Thái Lan có thói quen gọi người Việt là Khon Kèo (người Kèo) có thể là đọc trại của chữ Kiều trong chữ Việt kiều vậy.
4. Hai dòng thiền Lâm Tế và Tào Động (của An Nam tông, Thái)
Căn cứ vào các bài vị tại các tổ đường, cũng như pháp danh, pháp hiệu của các sư Thái tu theo An Nam tông xưa và nay, gốc tích của hai dòng thiền này chủ yếu được truyền thừa qua hai dòng chính tông là thiền Lâm Tế và Tào Động. Vấn đề là Lâm Tế và Tào Động nào, phát tích từ đâu?
4.1. Lâm Tế Trí Bản
- Đột Không 智板 - 突空 (Cũng gọi là Lâm Tế Trí Huệ, Lâm Tế Long Động [Đàng Ngoài])
Bài vị của chùa Phổ Phước Bangkok khắc tên các thế hệ Tổ sư của thiền phái Lâm Tế là: - Lâm Tế chánh tông, Nguyên Bảo - Chánh Tạng (đời thứ 38), Quảng Diễn - Vĩnh Khánh và Quảng Cần - Tinh Chuyên (đời thứ 39), Tục Nhuận - Diệu Trạm và Tục Nghi - Thủ Lễ (đời thứ 40), Bản Mặc - Viên Mãn (đời thứ 41) (Nguyên bản pháp danh được ghi ngược lại, ví dụ: Chánh Tạng - Nguyên Bảo) (Theo hệ: Nguyên, Quảng, Tục, Bổn [Bản]…)
Như vậy, từ bài vị này có thể cho ta biết được hai điểm. Một là sơ tổ của dòng thiền Lâm Tế tại Thái Lan là Tổ Nguyên Bảo - Chánh Tạng (đời thứ 38). Thứ đến, nó giúp ta truy nguyên dòng thiền này là thuộc chi phái Lâm Tế Trí Bản - Đột Không. Dòng này do ngài Trí Bản - Đột Không mở tông với bài kệ bắt đầu là chữ Trí Huệ, nên còn gọi là Lâm Tế Trí Huệ
智慧清淨
道德圓明
真如性海
寂照普通
心源廣續
本覺昌隆
能仁聖果
常演寬宏
惟傳法印
正悟會容|
空持戒行
永繼祖宗
Hiện tại, dòng Lâm Tế Thái Lan đã truyền xuống tới chữ Xương (昌) (43th), Long (隆) (44th), ví dụ vị Tổng Thư ký An Nam tông hiện tại là Phra Therazut tên pháp danh: Xương Thịnh (昌盛) tự Thiện Khai và thầy thư ký chùa Cảnh Phước hiệu là Xương Cảnh - Thiện Cụ (tức Phra Cô). Ngoài ra, bài biệt kệ pháp tự của chùa Phổ Phước Bangkok là: 得安樂成田/達通就廣寶/善受發應光/明海德勇慈 (Đắc an lạc thành điền / Đạt thông tựu quảng bảo / Thiện thọ phát ứng quang / Minh hải đức dũng từ. (Tư liệu do Phra Therazut cung cấp)
Vậy thì ai là bổn sư của Tổ Nguyên Bảo - Chánh Tạng (đời thứ 38) của dòng Lâm Tế Trí Bản - Đột Không của An Nam tông Thái Lan?
Theo Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài 12:
“Hòa thượng Chuyết Công hay Thiền sư Viên Văn - Chuyết Chuyết (1590 -1644) thuộc phái thiền Lâm Tế của Trung Hoa, thế hệ thứ 31, truyền thừa theo bài kệ truyền pháp của Tổ sư Trí Bản - Đột Không là vị thiền sư phục hưng dòng thiền Lâm Tế miền Bắc Hà. Ngài sang Đại Việt vào khoảng năm 1630, vào Đàng Trong trước, rồi năm 1633 ra Thăng Long lưu lại ở chùa Khán Sơn hoằng pháp. Sau đó dời về chùa Phật Tích ở Tiên Du (Bắc Ninh) và cuối cùng, sau khi chúa Trịnh cho trùng tu chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) thì về trụ trì chùa Ninh Phúc cho đến khi viên tịch vào năm 1644”.
Đồng thời theo Thiền uyển truyền đăng lục quyển hạ tờ 23a được soạn bởi Phúc Điền hòa thượng về truyền thừa chùa Thiên Tâm như sau: “Khai sơn thủy tổ chùa Thiên Tâm núi Tiêu ở Yên Phong Bắc Ninh là Vạn Hạnh tổ sư. Truyền xuống đời thứ 2 là Như Trí. Truyền xuống đời thứ 3 là Tính Dũng đại sư. Truyền xuống đời thứ 4 là Hải Trinh đại sư. Truyền xuống đời thứ 5 là Đồng Giáo Cánh Chủ Tịch Lâm tổ sư. Truyền xuống đời thứ 6 là Tịch Quang Chiếu Trí đại sư. Truyền xuống đời thứ 7 là Phổ Thuận đại sư. Truyền xuống đời thứ 8 là Thông Tuệ đại sư”13.
Nếu chúng ta bôi đậm chữ đầu dòng kệ thì sẽ thấy ngay pháp danh của chư Tổ sư đều được đặt đúng theo biệt kệ của dòng thiền Lâm Tế Trí Bản: Như (Trí), Tính (Dũng), Hải (Trinh), Tịch (Lâm, Quang), Chiếu (Trí), Phổ (Thuận), Thông (Tuệ).
Vậy thì, bổn sư của ngài Nguyên Bảo - Chánh Tạng phải có chữ đầu là Tâm và có thể là đệ tử của Tổ sư Thông Tuệ hay vị Tổ đồng hàng mang pháp hiệu chữ Thông.
Theo Kết Liên hoa tuyển Phật đồ: “Tiêu biểu là sơn môn Bổ Đà, ngôi chùa ở tỉnh Bắc Giang truyền pháp theo bài kệ của Thiền sư Đột Không - Trí Bản đã truyền đến chữ TỤC, chữ BẢN”.
Các chùa “Long Động, Liên Tôn, Nguyệt Quang ngoài Bắc đều truyền thừa theo bài kệ của Thiền sư Đột Không - Trí Bản. Thiền sư Chân Hiền Liễu Nhất, trụ trì chùa Hoa Yên, đệ tử của Thiền sư Minh Lương, ngài có đệ tử là Thiền sư Như Văn, tổ sư khai phái chùa Muống (Hải Dương) cũng truyền thừa theo bài kệ trên…”14
Điều gì giúp chúng tôi kết luận rằng Lâm Tế tại Thái Lan là chi phái của phái Lâm Tế Trí Bản - Đột Không miền Bắc (Đàng Ngoài) thay vì Lâm Tế miền Trung, Nam (dòng Nguyên Thiều, Chúc Thánh, Liễu Quán). Trước hết, giọng tụng và kinh điển (phiên âm Hán - Thái) của An Nam tông tại Thái Lan hầu hết đều đọc theo giọng Trung và Nam, ví dụ danh hiệu “Nam-mô Đại Trí Dăng Thù Sư Lợi Bồ-tát, Nam-mô Địa Tạng Dương Bồ-tát” thì rõ ràng là không thể giọng Bắc được, vì nếu đã là Bắc thì phải đọc là Văn Thù hay Địa Tạng Vương Bồ-tát. Không một tu sĩ nào đọc kinh giọng thuần Bắc cả, nhưng riêng tông Lâm Tế thì có pha trộn giọng Bắc15. Nhưng điều này không thể kết luận vấn đề truyền tông vì giọng đọc có thể thay đổi do các vị Tổ sư sau này khi phiên âm ra tiếng Thái đọc bằng giọng Nam, Trung trong khi thời kỳ truyền thừa ban đầu là giọng Bắc. Do vậy mà tông Lâm Tế còn giữ lại một số ít giọng Bắc. Thời kỳ đầu, các Trưởng lão An Nam tông khi đọc kinh phải học thuộc lòng chữ Hán trực tiếp, vấn đề phiên âm chỉ diễn ra sau này. Một điều khá thú vị là dù đọc kinh giọng Trung, Nam nhưng nghi thức và cách đánh chuông mõ lại theo lối miền Bắc, nghĩa là vị chủ sám (chủ lễ) sẽ phải đánh cả chuông và mõ. Trước khi vào tụng kinh thì phải đọc chú cúng hương, hoa, đăng, trà, quả. Điều này thì miền Trung và Nam không có. Vấn đề thứ hai, chúng tôi nghiên cứu pháp danh của các vị đệ tử đang tu theo tông Lâm Tế này và phát hiện họ đều có pháp danh truyền kệ đúng theo dòng truyền thừa của tông phái này. Pháp danh, pháp tự của các dòng thiền là vấn đề hết sức thiêng liêng và chặt chẽ. Nó nói lên sự chính tông và gốc tích dòng truyền của các Tổ sư, và vì vậy, cho dù có thay đổi địa điểm tu tập, dòng kệ pháp danh vẫn được lưu truyền cho hậu thế, đệ tử nối tiếp mà không thể khác đi được.
Tóm lại, Lâm Tế Thái Lan là chi phái của Lâm Tế Trí Bản - Đột Không miền Bắc. Tổ đình của “Lâm Tế An Nam tông Thái Lan” trên đất Việt Nam phải là chùa Ninh Phúc nơi vị Tổ sư khai tông dòng Lâm Tế Đàng Ngoài, Viên Văn - Chuyết Chuyết đang yên vị và tại Thái Lan là chùa Quảng Phước (wat Annamnikairam) nơi Tổ sư khai tông Lâm Tế Nguyên Bảo - Chánh Tạng đời 38 được tôn thờ.
4.2. Tào Động Thọ Xương (cũng gọi là Vĩnh Xương)
Tấm bài vị chư vị Tổ sư tại “Tổ sư điện chùa Cảnh Phước” khắc tên các thế hệ Tổ sư của thiền phái Tào Động là: - Từ Tào Động Chánh Tông, Tân Thành - Tánh Huyền, (đời thứ 39),Thông Huệ - Chân Hưng, (đời thứ 40), Thiên Vân - Bảo Hải, (đời thứ 41), Kiêm Khuyết - Diệu Khê, (đời thứ 42), Triệt Thanh - Bạch Ngọc, (đời thứ 43), Địa Kim - Giác Mẫn; Địa Tường - Phong Điều (đời thứ 44) (Theo hệ: Tân, Thông, Thiên, Kiêm (Tịnh), Triệt, Địa… và đôi khi chữ Kiêm được thay bằng chữ Tịnh có lẽ vì nghĩa giống nhau).
Một điều khá đặc biệt là dòng chữ Hán chính giữa tấm bài vị, đề: Nam-mô Tây Thiên, Đông Độ lịch đại Tổ sư Giác linh. Đây có thể là sai lầm về mặt nhận thức của người khắc bài vị chăng! Vô hình trung, người đọc cứ tưởng đây là ngôi chùa Trung Hoa tông trên đất Thái vì nếu dịch nghĩa bài vị là: “Kính lễ Giác linh chư Vị Tổ sư [đến từ] Tây Thiên (Ấn Độ) và Đông Độ (Trung Hoa)” mà quên rằng Tổ sư là người Việt, tại ngôi chùa Việt trên đất Thái. Do vậy, nếu viết đúng phải là: Nam-mô Tây Thiên, Đông Độ, An Nam, Xiêm-la truyền Giáo lịch đại Tổ sư Giác linh. Cụ thể chứng minh là linh vị Tổ sư toàn là người Việt, và người Thái (Tân Thành - Tánh Huyền…). Hầu hết các chùa An Nam tông đều mắc sai lầm tế nhị này. Rất có thể do nghi cổ lạy thù ân sám hối chỉ đề là: “Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây Thiên, Đông Độ lịch đại Tổ sư, tam bái”. Do vậy, nếu sửa đổi lại thì phải bắt nguồn từ bổn sám hối này, rồi đến bài vị Tổ sư.
Nhìn vào dòng truyền thừa, chúng tôi khẳng định đây là Tào Động Thọ Xương do Thiền sư Vô Minh - Tuệ Kinh sáng lập. Ngài Huệ Kinh (慧經,1548-1618) Thiền tăng đời Minh, họ Bùi, tự Vô Minh, người xứ Sùng Nhân (nay thuộc tỉnh Giang Tây) Trung Quốc; nối pháp Thiền sư Thường Trung, tông Tào Động. Sư trụ chùa: Bảo Phương, Thọ Xương. Tác phẩm: Vô Minh Huệ Kinh Thiền sư ngữ lục (Phật Quang đại từ điển).
Gọi là Tào Động Thọ Xương là vì vẫn còn đang truyền đến chữ Diệu, Cổ (Ví dụ: HT. Diệu Giác - Tịnh Liên - Trú trì chùa Cảnh Phước, TT. Diệu Hải - Tổng điều hành Đại học Đại Trí (Mahāpanya), Hatyai; trong khi đó dòng thiền này tại Đài Loan và Phật giáo Hoa tông miền Nam Việt Nam đã nối sang dòng thiền Cổ Sơn nên gộp lại là Tào Động Thọ /Vĩnh Xương Cổ Sơn, và nếu tinh ý chúng ta sẽ thấy khi viết chữ Hán luôn đề là tục phái (續派) nghĩa là chi nối, dòng truyền thêm để phân biệt với dòng gốc.
壽昌派: Thọ xương phái
慧元道大興 Tuệ Nguyên Đạo Đại Hưng
法 界一鼎新 Pháp Giới Nhất Đỉnh Tân
通天兼徹地 Thông Thiên Kiêm Triệt Địa
耀古復騰今 Diệu Cổ Phục Đằng Kim.
鼓山續派: Cổ sơn tục phái
今日禪宗振 Kim nhựt thiền tông chấn
宏 開洞上傳 Hoằng khai đỗng thượng truyền
正中妙挾旨 Chánh trung diệu hiệp chỉ
虛融照獨圓 Hư dung chiếu độc viên.
Căn cứ vào lịch sử truyền thừa của tông phái Tào Động Đàng Trong tại Đại Việt lúc bấy giờ phải kể đến Tổ sư Thạch Liêm - Đại Sán (1633-1704) đời thứ 29. Sư được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang Đại Việt năm 1695 và tổ chức giới đàn cho Tăng chúng và hoàng thân quốc thích tại chùa Thiền Lâm (Thuận Hóa) và Di Đà (Hội An). Năm ấy chúa Nguyễn Phúc Chu được thọ Bồ-tát giới với pháp danh Hưng Long (30th). Căn cứ vào dòng truyền thừa (từ Đại đến Hưng), chúng ta có thể kết luận rằng dòng Tào Động Đàng Trong này là dòng Tào Động Thọ Xương. Dù rằng Thạch Liêm rất có công trong vấn đề truyền bá tông phái Tào Động, độ được vị quốc chủ là chúa Hưng Long (đời 30) nối tông nhưng ông không phải là người đặt nền móng đầu tiên phát triển tông phái Tào Động tại Đại Việt mà người đó phải là Quốc sư Hưng Liên, đệ tử của Thạch Liêm. Sư Hưng Liên được mời sang Đại Việt từ thời chúa Nguyễn Phúc Trăn (cha của Nguyễn Phúc Chu), như vậy có nghĩa là Sư đã hoằng pháp tại đây từ 4 tới 5 năm so với thầy mình là Thạch Liêm. Một người được phong là quốc sư hẳn nhiên công trạng, đạo đức và sự cống hiến là không nhỏ. Từ Quốc sư Hưng Liên đến Sơ tổ Tân Thành - Tánh Huyền của Tào Động An Nam tông là 4 đời, như vậy đúng nghĩa ngài Tân Thành phải là đời thứ 35, song bài vị Tổ sư lại đề đời thứ 39 cho thấy có sự chênh lệch nào đó trong cách tính. Tuy nhiên, căn cứ vào bài kệ truyền tông thì chúng ta có thể kết luận rằng thầy của Tổ Tân Thành - Tánh Huyền phải có pháp danh là chữ Đỉnh.
Mặc dù có những sai sót nhỏ trong cách tính toán, nhưng theo kết quả khảo cứu thực tế cho thấy dòng thiền Lâm Tế An Nam tông là chi phái của dòng Tào Động (Thọ Xương) miền Trung Việt Nam truyền sang. Tại miền Trung Việt Nam, dòng thiền này được Quốc sư Hưng Liên truyền vào trước nhất và người làm cho nó phát triển hơn là Tổ sư Thạch Liêm - Đại Sán. Tại Thái Lan, sơ tổ Tân Thành - Tánh Huyền tại tổ đình Long Sơn (wat Thamkhaunoi) là người khai truyền tông này. Hiện tại dòng Lâm Tế An Nam này đang truyền tới chữ Cổ (古) tức là hàng đệ tử của các vị Hòa thượng Diệu Giác - Tịnh Liên, hay HT.Tăng trưởng An Nam tông Thích Kính Chiếu.
Theo thống kê thực tế từ các bài vị của các tổ đình và số lượng Tăng sĩ xuất gia theo An Nam tông hiện tại cho kết quả là toàn nước Thái có khoảng 500 Tăng và Sa-di tu theo An Nam tông, trong đó 77% Tăng sĩ thuộc tông Lâm Tế và 23% theo tông Tào Động.16
5. Kết luận
An Nam tông Thái Lan là một dấu ấn rõ nét của việc truyền tông ra nước ngoài của nền Phật giáo Việt. Dù trải qua những thăng trầm của lịch sử, và đôi khi vắng bóng hoàn toàn sự hiện diện của sư Việt trên đất Thái (kể từ khi ngài Tăng trưởng Bình Lương hay Sư cụ Ba về Việt Nam và Tổ Bảo Ân viên tịch năm 1964) nhưng mạng mạch Phật pháp của tông phái vẫn được duy trì và phát triển do những đệ tử xuất gia và tại gia người Thái và Thái - Hoa kế tục hơn 230 năm qua. Linh hồn của Phật giáo Việt tồn đọng ầm thầm qua nhị thời khóa tụng bằng âm Hán-Việt, qua những bái tán “dương chi tịnh thủy, hải chấn triều âm” hay khoa chẩn tế cô hồn mang đậm truyền thống dân tộc Việt: giản dị mà kiên cường. Lâm Tế Trí Bản (Đàng Ngoài) và Tào Động Thọ Xương (Miền Trung) đã kế tục xuất sắc hai dòng thiền phái của Phật giáo Đại thừa Việt Nam khi truyền sang xứ sở của Phật giáo Nam truyền tạo nên một nền Phật giáo Việt giàu khả năng thích ứng và bản sắc.
Nghiên cứu nguồn gốc hai dòng thiền này, chúng ta có thể có cái nhìn toàn diện về nền Phật giáo Việt Nam, kết nối những khoảng trống trong lịch sử Phật giáo nước nhà. Hơn thế, An Nam tông còn là kho tàng sống động để nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII, XIX, những vấn đề nghi lễ, nghi truyền giới theo cách thức cổ (Bản Giới đàn Tăng cổ), khoa nghi cúng chẩn, âm nhạc Phật giáo (các bản khoa) cũng như các thế hệ danh tăng Việt Nam tại nước ngoài, những chí sĩ yêu nước tại Thái v.v… tất cả có thể được tìm thấy khi chúng ta đi vào nghiên cứu sâu mỗi bình diện của tông An Nam này.
Nguyên Chơn, Đạo Bình
Comments[ 0 ]
Post a Comment